Ngành công nghiệp đóng tàu dân dụng luôn được xác định có vị trí không thể thiếu đối với nền kinh tế. Nhưng, trong những năm qua, toàn ngành gặp khủng hoảng do nhu cầu vận tải đường biển thế giới cũng như trong nước suy giảm mạnh. Tuy nhiên, với những nỗ lực không ngừng nghỉ, các công ty đóng tàu Việt Nam đã và đang từng bước tinh giản bộ máy, cơ cấu lại sản phẩm theo hướng tìm kiếm những mẫu mã thị trường có nhu cầu để quyết tâm bám trụ với nghề.
Ngành đóng tàu Việt Nam hình thành rõ nét được khoảng trên dưới năm mươi năm nay. Từ thế hệ tàu hơi nước của các ông chủ người Pháp , người Hoa, rồi không lâu giành thế độc tôn về tàu bè là nhà tư sản dân tộc nổi tiếng người Việt Bạch Thái Bưởi. Ngoài việc chạy tàu khắp cả nước, năm 1917, Bạch Thái Bưởi đã từng cho đóng tàu tới 600T có công suất máy 450 mã lực tại Cửa Cấm Hải Phòng. Nơi đây ngày nay cũng là một trong những trung tâm đóng tàu lớn của Việt Nam. Với nhiều nhà máy đóng và sửa chữa tàu có qui mô lớn, hiện đại đã đóng những con tàu biển lớn có tải trọng tới 53.000T, 56.000T lớn gần gấp một trăm lần con tàu mà Bạch Thái Bưởi đã đóng và cho ra đời cùng nhiều loại tầu đặc chủng có tính năng đặc biệt, hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu.
Có được một bước trưởng thành như vậy phải nói đến những chủ trương chính sách đúng đắn mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước suốt thời gian qua, nhất là từ Đại hội Đảng lần thứ V đến nay. Trải qua gần 50 năm phát triển và trưởng thành, Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp trọng điểm quốc gia với một hệ thống các nhà máy đóng tàu lớn nhỏ từ Bắc vào Nam, các nhà máy liên doanh với nước ngoài. Cùng với đội ngũ hết sức đông đảo gần 50 vạn CBCNV trở thành một nguồn nhân lực và trang bị kỹ thuật quan trọng, thiết yếu của quốc gia.
Điều này được thể hiện như sau: Ngành GTVT, với đội tàu vận tải nội địa và viễn dương nhiều năm có độ tăng trưởng cao. Ngành Quốc phòng, với đội tàu có tính năng kỹ thuật cao để làm công tác sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ an ninh quốc phòng. Ngành thủy sản, với một đội tàu đánh bắt gần và xa bờ trên cả một bờ biển dài, rộng và có nhiều tiềm năng kinh tế. Ngành dầu khí, với một hệ thống giàn khoan thăm dò khai thác, tàu chở dầu thô, chở khí đốt, tầu dịch vụ. Ngoài ra còn ở nhiều địa phương và các ngành kinh tế khác Công nghiệp tàu thủy cũng có sự phát triển cao và chiếm vị trí quan trọng.
Đã có thời kỳ ngành Công nghiệp tàu thủy đã được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có tác dụng đầu tàu để kéo theo các ngành công nghiệp hỗ trợ vệ tinh khác phát triển, nên đã được tập trung đầu tư chiều sâu và mở rộng sản xuất góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Biển cả và các đại dương vẫn còn, nhu cầu vận tải vẫn còn, những con người đã từng đóng ra những con tàu vượt đại dương mang thương hiệu Việt Nam sánh tầm với các nước có trình độ cao về công nghệ đóng tàu vẫn còn và lại được đào tạo lại nâng cấp về quản lý cũng như tay nghề... Với tất cả những điều đó nhất định “ánh sáng cuối đường hầm” sẽ bừng sáng đối với Công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Sự tất yếu này được thể hiện ở sự quyết tâm từ Bộ Chính tri, Chính phủ, Bộ ngành quản lý đến toàn ngành. Đỉnh cao là Nghị quyết hội nghị TW 8 Khóa XII, ngày 22/10/2018 của BCHTƯĐ đó là: “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”.
Nghị quyết đã nêu: Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế biển, bảo đảm nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh. Trong đó nói về đóng tàu: “Phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và đóng tầu”. Thực hiện chủ trương này, rồi đây lực lượng đóng tàu trong các Bộ ngành sẽ có những bước đi cụ thể để phục hồi và phát triển.